Tôi và chồng kết hôn hơn mười năm, cùng nhau tạo dựng cuộc sống và nuôi hai con nhỏ. Ngôi nhà hiện nay được mua sau khi cưới, nhưng vì tin tưởng nên chúng tôi thỏa thuận để chồng đứng tên một mình. Gần đây, tôi phát hiện anh có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Trong lúc cãi vã, anh lớn tiếng đuổi tôi đi, nói rằng nhà này chỉ thuộc về anh vì giấy tờ mang tên anh. Tôi vừa đau đớn vừa lo lắng cho tương lai của mình và các con: nếu ly hôn, liệu chúng tôi có còn quyền ở trong ngôi nhà này và được pháp luật bảo vệ hay không.
1. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những gì? Việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung của vợ chồng được quy định như thế nào?
Căn cứ theo Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tài sản chung của vợ chồng gồm:
- Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
- Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Theo Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung được quy định như sau:
- Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
- Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 26 của Luật này; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo quy định tại khoản 3 Điều 33 của Luật này.
Như vậy, nếu tài sản là nhà của bạn thuộc 1 trong các trường hợp tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì đó là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, căn cứ theo Điều 34 của luật này thì việc chồng bạn đứng tên trên giấy tờ nhà sẽ không phải là căn cứ để xác định quyền sở hữu riêng của chồng bạn đối với tài sản này.
2. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng.
Theo Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
- Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
- Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.
Như vậy, đối với tài sản chung vợ, chồng sẽ bình đẳng với nhau trong việc định đoạt và trong trường hợp này, tuy bạn không có tên trong giấy tờ nhà nhưng nếu là tài sản chung của vợ chồng thì bạn cũng có quyền sử dụng, định đoạn căn nhà.
3. Hành vi đuổi người vợ ra khỏi nhà.
(Ảnh minh họa)
Từ những phân tích ở trên, nhận thấy rằng: trường hợp nhà ở thuộc quyền sở hữu chung của 2 vợ chồng và người vợ đã sinh sống ở đây thời gian dài thì được xem là chỗ ở hợp pháp của người vợ. Như vậy, hành vi chồng bạn đuổi bạn ra khỏi nhà là không có căn cứ pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn.
Hành vi này còn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 59 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Về việc có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác.
Theo bạn trình bày thì chồng bạn đang có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Tuy nhiên, Tòa sẽ không căn cứ vào lời trình bày này để xác định chồng của bạn có vi phạm quy định của pháp luật không, vì thuật ngữ “quan hệ bất chính” chưa rõ ràng, đồng thời mối quan hệ này có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Trong trường hợp bạn có căn cứ chứng minh chồng của bạn và người phụ nữ đó có quan hệ “chung sống như vợ chồng” tức là việc nam, nữ tổ chức sống chung và coi nhau là vợ chồng được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì mới có căn cứ để khẳng định chồng bạn có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Hành vi của người "Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác" có thể bị xử phạt hành chính từ 3 triệu đến triệu đồng (điểm b khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP). Hoặc có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
Từ khoá: