Trong bối cảnh sáng tạo phát triển mạnh mẽ, mỗi tác phẩm đều cần được bảo vệ để ghi nhận công sức và quyền lợi của người tạo ra. Quyền tác giả vì vậy trở thành công cụ pháp lý quan trọng nhằm bảo hộ tác phẩm và định rõ quyền của tác giả đối với sáng tạo của mình.
1. Quyền tác giả là gì?
Căn cứ khoản 2 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019, 2022, 2025 (sau đây gọi tắt là Luật sở hữu trí tuệ 2005), quy định: Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Như vậy, có thể hiểu rằng quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức sáng tạo, nghĩa là không bảo hộ về nội dung, ý tưởng sáng tạo; các ý tưởng phải được thể hiện ra ngoài: Âm thanh, lời nói, hình vẽ; và tác phẩm phải được định hình dưới một hình thức nhất định, trừ các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian theo khoản 1 Điều 13 Nghị định 17/2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan (gồm là: Truyện, thơ, câu đố; Điệu hát, làn điệu âm nhạc; Điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các trò chơi).
Ø Điều kiện để tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả:
- Tính nguyên gốc: Không sao chép tác phẩm của người khác, nhưng có thể kế thừa, chủ thể trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm được quyền kế thừa nhưng không được sao chép toàn bộ.
- Thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định như: Sách, truyện, thơ, tác phẩm điện ảnh,…
- Thuộc loại hình tác phẩm tại Điều 14 và không thuộc Điều 15 (Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin; Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó; Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu) và Khoản 1 Điều 8 (Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hoà lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng, an ninh) Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
2. Nội dung bảo hộ quyền tác giả
Quyền tác giả đổi với tác phẩm gồm: Quyền nhân thân và quyền tài sản.
a. Quyền nhân thân: Căn cứ Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ 2005, đây là các quyền không thể được chuyển giao (trừ khoản 3 Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
Quyền nhân thân bao gồm:
Thứ nhất, đặt tên cho tác phẩm; Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ 2005. Trừ tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác khoản 1 Điều 14 Nghị định 17/2023.
Thứ hai, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng.
Ví dụ: Tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, dù bao nhiêu thế hệ đi chăng nữa, mỗi khi trích dẫn hay sử dụng tác phẩm thì khi nói đến tác phẩm Bình Ngô đại cáo là phải gắn liền với tác giả Nguyễn Trãi.
Thứ ba, công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
Thứ tư, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
b. Quyền tài sản: Căn cứ khoản 1 Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005
- Làm tác phẩm phái sinh;
- Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 3 Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005;
- Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005;
- Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;
- Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, trừ trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chính của việc cho thuê.

(Quyền tác giả là gì? Nội dung bảo hộ quyền tác giả)
Ngoại lệ: khác với việc sở hữu tài sản hữu hình thì chủ sở hữu tài sản trí tuệ bị giới hạn các quyền của mình trong một số trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005, quy định: Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi sau đây:
Thứ nhất, sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;
Thứ hai, phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối. Ví dụ: sau khi mua 1 cuốn sách ở nhà sách, thì người mua có thể cho, tặng, đem bán cho người khác mà không cần sự đồng ý của tác giả cuốn sách đó.
Từ khoá:

